Bản án 1011/2018/HNGĐ-ST ngày 31/07/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1011/2018/HNGĐ-ST NGÀY 31/07/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 31/7/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 26/2018/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 01 năm 2018 về vụ việc tranh chấp ly hôn.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2925/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 7 năm 2018, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà T, sinh năm: 1974

Địa chỉ: Số A, Phường B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh. Tạm trú: Số D, Phường N, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Ông E, sinh năm: 1945

Quốc tịch: Đức (German) Địa chỉ: Germany.

Tạm trú: Thailand.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trình bày của bà T:

Bà và ông E tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ngày 28 tháng 9 năm 2006, vào sổ đăng ký kết hôn số 3200 quyển số 11 ngày 12 tháng 10 năm 2006.

Trong quá trình chung sống vợ chồng, thời gian đầu thì hạnh phúc. Nhưng càng về sau thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng về quan điểm và lối sống hàng ngày. Bà và ông E không tìm được tiếng nói chung trong đời sống vợ chồng nên không thể nào cùng nhau để giải quyết mâu thuẫn và hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Hiện nay, ông E đang cư trú tại Thái Lan, bà vẫn ở lại Việt Nam nên càng không có cơ hội nói chuyện giải quyết mâu thuẫn nên tình cảm vợ chồng không còn và bà Thúy đã tự chấm dứt cuộc hôn nhân của bà với ông E. Bà nhận thấy cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà đề nghị được ly hôn với ông E để ổn định cuộc sống riêng của mình.

Con chung: Có 01 con chung là trẻ K, giới tính nam, sinh ngày 22/10/2006. Hiện nay, trẻ K đang sinh sống cùng ông E tại Thái Lan. Bà đồng ý giao con chung là trẻ K cho ông E trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng đến khi trưởng thành; bà không cấp dưỡng nuôi con chung.

Tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nợ chung: Không có.Bị đơn ông E trình bày:

Trong văn bản xin ly hôn của ông E đã được Hợp pháp hóa Lãnh sự tại Bộ

Ngoại giao nước Cộng hòa xã hội Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày26/02/2018 có nội dung:

Ông E cũng thừa nhận quan hệ hôn nhân như bà T trình bày và ông cũng đồng ý ly hôn theo yêu cầu của bà T vì tình cảm vợ chồng không còn, những bất đồng mâu thuẫn không giải quyết được.

Con chung: Có 01 con chung là trẻ K, giới tính nam, sinh ngày 22/10/2006. Hiện nay, trẻ K đang sinh sống cùng ông E tại Thái Lan. Ông cũng đồng ý chăm sóc và nuôi dưỡng con chung là trẻ K đến khi trưởng thành; ông cũng không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con chung.

Tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nợ chung: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về thủ tục tố tụng: Ông E có văn bản xin ly hôn có nội dung xin vắng mặt trong suốt quá trình tố tụng giải quyết vụ việc ly hôn với bà T và đã được Hợp pháp hóa Lãnh sự tại Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa xã hội Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 26/02/2018; bà T có Đơn xin xét xử vắng mặt ngày22/3/2018 nên Hội đồng vẫn tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Xét yêu cầu ly hôn của bà T có đủ căn cứ để xác định:

Quan hệ hôn nhân: Căn cứ giấy chứng nhận kết hôn của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho bà T và ông E vào sổ đăng ký kết hôn số 3200 quyển số 11 ngày 12 tháng 10 năm 2006 thì hôn nhân giữa bà T và ông E là hôn nhân hợp pháp.

Bà T yêu cầu được ly hôn ông E vì những mâu thuẫn bất đồng về quan điểm lối sống hàng ngày không giải quyết được, tình cảm vợ chồng không còn vì thời gian xa cách kéo dài nên không thể giải quyết mâu thuẫn, hàn gắn tình cảm vợ chồng. Bà T nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn và bà đã tự chấm dứt cuộc hôn nhân giữa bà và ông E. Từ năm 2016 đến nay, hai bên thừa nhận không có liên lạc để giải quyết bất đồng và hàn gắn tình cảm vợ chồng. Ông E cũng đồng ý ly hôn theo yêu cầu của bà Thúy.

Do mâu thuẫn, bất đồng không giải quyết được, điều kiện sống mỗi người mỗi nơi, khả năng đoàn tụ không có, mục đích hôn nhân không đạt nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T để tạo điều kiện cho các bên ổn định cuộc sống riêng sau này.

Con chung: Có 01 con chung là trẻ K, giới tính nam, sinh ngày 22/10/2006. Hiện nay, trẻ K đang sinh sống cùng ông E tại Thái Lan. Bà đồng ý giao con chung là trẻ K cho ông E trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng đến khi trưởng thành; bà không cấp dưỡng nuôi con chung.

Trong bản khai của trẻ K ngày 22/3/2018 có nội dung đồng ý sống với ba là ông E khi mà ba mẹ không còn chung sống cùng nhau.

Đây là sự tự nguyện của cả nguyên đơn và bị đơn dựa trên ý chí cá nhân, không bị ai ép buộc, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội. Do đó, cần chấp nhận sự thỏa thuận của các bên, giao con chung cho ông E trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; ghi nhận sự tự nguyện của bị đơn không yêu cầu nguyên đơn cấp dưỡng nuôi con hàng tháng. Mặt khác, để đảm bảo quyền lợi cho trẻ phát triển toàn diện, không làm xáo trộn cuộc sống của trẻ cũng như là nguyện vọng của các bên nên giao trẻ K cho ông E trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung đến khi trưởng thành là phù hợp quy định

Tài sản chung: Cả hai xác nhận không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Nợ chung: Không có.

- Án phí dân sự sơ thẩm bà T phải chịu theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, Khoản 1 Điều 37, Khoản 1 Điều 38, Khoản 4 Điều 147, Điều 266, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 về quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu của bà T.

Quan hệ hôn nhân: Bà T được ly hôn với ông E.

Con chung: Giao con chung là K, giới tính nam, sinh ngày 22/10/2006 cho ông E trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi trưởng thành.

Ghi nhận sự tự nguyện của ông E không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con chung. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung đối với bà T.

Bà T được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không được ai cản trở.

Vì quyền và lợi ích của con chung, các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con

Tài sản chung: Cả hai xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nợ chung: Không có.

2. Án phí dân sự sơ thẩm: Bà T chịu 300.000 đồng được cấn trừ vào Biên lai thu tạm ứng án phí số 0048666 ngày 17/01/2018 của Cục thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Án xử công khai sơ thẩm, thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày bà T nhận tống đạt hợp lệ bản án. Đối với ông E thời hạn kháng cáo bản án là 01 tháng kể từ ngày nhận tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 1011/2018/HNGĐ-ST ngày 31/07/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:1011/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;